PIC Vietnam

Go Back   PIC Vietnam > Microchip PIC > Cơ bản về vi điều khiển và PIC

Tài trợ cho PIC Vietnam
Trang chủ Đăng Kí Hỏi/Ðáp Thành Viên Lịch Tìm Kiếm Bài Trong Ngày Ðánh Dấu Ðã Ðọc Vi điều khiển

Cơ bản về vi điều khiển và PIC Những bài hướng dẫn cơ bản nhất để làm quen với vi điều khiển PIC

Trả lời
 
Ðiều Chỉnh Xếp Bài
Old 24-05-2005, 01:21 AM   #1
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Học PIC trong 1 ngày (Upd. 01/01/2006)

Cơ bản về PIC


Dưới đây là hình mạch chạy của PIC16F84A, PIC16F628A và PIC16F88. Tất cả các PIC này đều có vị trí chân tương ứng nhau, và thậm chí có thể nói PIC16F628A tương thích PIC16F84A và PIC16F88 tương thích với hai loại còn lại. Có nghĩa là trong các ứng dụng của PIC16F84A, khi thay đổi bằng PIC16F88, hay PIC16F628A đều được.



Tất nhiên, 3 loại vi dòng PIC trên đây có thể tương thích với nhiều dòng PIC cũ hơn, nhưng vì thị trường PIC Việt Nam phổ biến với 3 loại PIC này, cho nên chúng tôi chỉ đề cập đến 3 loại PIC này mà thôi.

Sau khi các bạn có mạch nạp, chương trình nạp, MPLAB IDE, CCS C hoặc HT PIC, các bạn làm mạch chạy này. Kể từ đây khi thiết kế cách mạch test, hoặc các thiết bị ngoại vi khác, cần thử nghiệm, các bạn chỉ việc thiết kế mạch ngoài, sau đó cắm vào các chân ra và chạy thử.

Khi mạch chạy tốt, các bạn muốn thiết kế được hoàn chỉnh, các bạn chỉ việc copy mạch chạy từ Orcad và dán vào mạch nguyên lý của thiết bị của bạn. Xoá các chân header đi, và nối dây vào trong mạch chạy PIC. Như vậy, chúng ta không phải tốn thời gian thiết kế cho PIC nữa.

Một vài điểm lưu ý về mạch như sau:

- Nguồn chỉ dùng cho PIC, tuyệt đối không dùng bộ nguồn này cho thiết bị ngoại vi. Nếu thiết bị ngoại vi cần nguồn, các bạn thiết kế bộ nguồn riêng. Một số thiết bị ngoại vi quá đơn giản, và tốn ít dòng, các bạn có thể dùng nguồn chung (khoảng 100mA)

- Tôi không khuyến khích dùng dao động nội của PIC, bởi vì dao động nội chỉ chạy được ở 4MHz, và không ổn định như dùng thạch anh ngoài. Một số đề tài công nghiệp, họ dùng thạch anh chuẩn công nghiệp 4 chân, nên chúng ta cũng tạo thói quen dùng thạch anh ngoài, không cần quá tận dụng 2 chân của PIC.

- Mạch reset này là mạch reset đơn giản nhất của PIC, và tạo chế độ reset power on. Một số ứng dụng của PIC yêu cần mạch brownout reset, các bạn có thể tham khảo trong datasheet. Nhưng tôi thiết nghĩ, những đề tài thông thường, không cần dùng mạch brownout reset này.

- Chúng ta thống nhất chuẩn thiết kế cho các header là nối vào các chân của PIC theo thứ tự hai chân ngoài cùng là Rx0 và GND. Mục đích là để khi chạy mạch in, chân GND có thể được xếp ra phía ngoài, chân Rx0 để quy định cho tất cả các port khác nhau, vì có port chỉ có 3 chân, có port 5 chân, 8 chân... Nếu lấy chân RB7 làm chuẩn chẳng hạn, thì sẽ rất khó giải thích khi lấy chân RA4 đặt ra phía ngoài. Vì vậy RA0 và RB0 chúng ta lấy làm chuẩn. Điều này cũng đã được thực hiện trong một số tutorial, và gần như là quy ước bất thành văn khi thực hiện các mạch phát triển cho vi điều khiển. Chân VDD (5V) được nối vào, nhằm sử dụng cho các ứng dụng cần có điện áp ngõ vào, nhưng không cao lắm như ở trên đã nói (100mA). Tuyệt đối không thiết kế chân VSS (GND) và chân VDD (5V) ở hai đầu của header, tránh tình trạng đôi khi chúng ta không để ý cắm nhầm, có thể làm hỏng PIC, hoặc hỏng luôn cả thiết bị ngoại vi.

- Các nút bấm và công tắc, tôi thiết kế là các nút bấm 4 chân, vì hiện nay trên thị trường hầu như chỉ bán loại nút bấm này, và loại nút bấm này chắc chắn hơn loại 2 chân trước đây. Các bạn cũng lưu ý sau này khi thiết kế nút bấm cũng nên thiết kế nút bấm 4 chân.

- Con ổn áp 78L05 khác với con 7805. Nó là dạng TO92, tức là nó giống như con transistor thông thường, nên rất nhỏ, chứ không phải dạng 3 chân và có tấm tản nhiệt phía sau như con 7805. Do vậy, mạch thiết kế sẽ nhỏ đi khá nhiều.

- Ở đây, tôi không chạy ra mạch in, vì rằng tôi muốn dành công việc này cho các bạn sinh viên mới học. Sau khi các bạn làm xong mạch in, nếu các bạn có thể chia sẻ với chúng tôi thì thật là tuyệt vời. Chỉ có một điều lưu ý là, chúng ta thường không cắm trực tiếp vi điều khiển vào mạch để hàn, mà chúng ta cắm qua một socket để có thể gỡ ra lập trình lại, và để đảm bảo không bị cháy PIC khi hàn. Do vậy, khi cắm socket, các bạn sẽ có thể nhét hai tụ nối ở thạch anh vào bên trong socket, khi cắm PIC lên, nó sẽ che hai cái tụ đó đi, và mạch của các bạn sẽ gọn gàng hơn. Socket loại 18 chân không thể nhét thạch anh và điện trở nối từ chân MCLR đến VDD vào bên trong được, nhưng sau này khi dùng PIC 28 hoặc 40 chân, các bạn nên nhét tất cả vào bên dưới socket để cho mạch gọn gàng hơn.

- Một điểm cuối cùng, chúng tôi không thiết kế phần nạp bằng ICSP, bởi vì chúng tôi không muốn làm cho các bạn mới học PIC cảm thấy bối rối. Chúng ta sẽ thực hiện mạch chạy PIC với các chân ICSP và bootloader sau.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 24-05-2005, 04:10 AM   #2
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Học vi điều khiển PIC trong 1 ngày

Bài tập 1: Bật tắt đèn LED




Cực dương của LED được nối với điện trở, điện trở được nối với các chân vi điều khiển. Cực âm của LED được nối với GND của vi điều khiển. Như vậy, khi chân vi điều khiển ở mức cao, tức là 5V, đèn LED sẽ sáng. Khi chân vi điều khiển ở mức thấp (0V) đèn LED sẽ tắt.

Lưu ý trong hình: Giá trị của điện trở được xác định dựa vào dòng tối đa của vi điều khiển, điện áp và dòng điện tối đa của đèn LED. Như vậy, giá trị nhỏ nhất của điện trở được dùng được tính toán như trong hình. R = 125 Ohm.

Tuy nhiên, để đảm bảo hoạt động của đèn LED, chúng ta nâng giá trị điện trở lên thành 200 Ohm. Đèn LED khi sáng quá, chỉ cần sờ tay vào nó, hoặc các va chạm mạnh, hoặc trường hợp bị tĩnh điện, đèn LED có thể bị hư ngay. Hiện tượng này dễ thấy nhất là ở các LED cực sáng dùng trong các bảng hiệu hoặc biển báo giao thông, các đèn LED cực sáng chỉ cần chạm tay vào, sẽ có hiện tượng tĩnh điện và nổ ngay. Với các LED thường và dùng trong thí nghiệm, khó xảy ra hiện tượng này, tuy nhiên chất lượng sản xuất của các đèn LED cũng không đảm bảo, do vậy chúng ta chọn giải pháp an toàn là trên hết. Hơn nữa, chúng ta cũng không cần đèn LED quá sáng.

Để bắt đầu bài tập 1, chúng ta tìm hiểu sơ qua về cấu trúc một chương trình viết bằng MPASM như sau:

Bất cứ một chương trình ASM nào, cũng được bắt đầu bằng việc giới thiệu về chương trình, tên chương trình, người thực hiện chương trình, ngày thực hiện chương trình, ngày hoàn tất, người kiểm tra lại chương trình, ngày kiểm tra chương trình, phiên bản của chương trình, mô tả phần cứng của mạch giao tiếp và một số chú thích. Vì vậy, tôi đưa ra đây một form mà tôi cho rằng hợp lý, từ đây về sau, các bạn chỉ cần cắt dán form này, thay đổi nội dung từng mục để làm phần mở đầu.

Chúng ta quy định một số quy ước sau:


;========== dùng để phân cách các phần chính của chương trình
;---------------- dùng để phân cách các chương trình con của chương trình

Code:
;========================================================
; Ten chuong trinh	: Mach test den LED_1
; Nguoi thuc hien	: Falleaf
; Ngay thuc hien	: 23/05/2005
; Phien ban	: 1.0
; Mo ta phan cung	: Dung PIC16F628A - thach anh 10MHz
;		: LED giao tiep voi PORTB
;		: Cuc am cua LED noi voi GND
;		: RB0 - RB7 la cac chan output 
;----------------------------------------------------------------
; Ngay hoan thanh	: 23/05/2005
; Ngay kiem tra	: 23/05/2005
; Nguoi kiem tra	: Doan Hiep
;----------------------------------------------------------------
; Chu thich	: Mo ta cac diem khac nhau cua cac phien ban khac nhau 
;		: hoac cac chu thich khac
;		: vd, dung che do Power On Reset, PORTB = 00000000
;		: hoac, chuong trinh viet cho PIC Tutorial
;		: hoac, chuong trinh nay hoan toan mien phi va co the dung cho
;		: moi muc dich khac nhau
;========================================================
Mặc dù chưa chắc rằng đoạn chú thích này có thể ngắn hơn chương trình các bạn viết, và như vậy việc viết chú thích dài hơn việc viết chương trình? Không, thực sự các chú thích này rất quan trọng, vì sau 1, 2, 3 năm, các bạn nhìn lại, các bạn sẽ vẫn còn hiểu được mình đã làm gì. Có thể khi mới bắt đầu, các bạn thấy công việc ghi chú này là nhàm chán, chính vì vậy, tôi đã cung cấp form của ghi chú này, các bạn sau đó chỉ cần cắt và dán. Tôi hy vọng rằng các bạn nên tạo thói quen đưa đoạn chú thích này vào chương trình để các bạn trở nên chuyên nghiệp hơn khi làm việc với vi điều khiển, cụ thể ở đây là PIC.

Tất nhiên, đây là bài học đầu tiên, do vậy các chú thích sẽ được ghi rất chi tiết, nhất là khi mô tả phần cứng. Sau này, với các mạch phức tạp hơn, các bạn không thể ghi chú quá chi tiết như thế này được, các bạn chỉ ghi chú những điểm chính thôi. Cũng tất nhiên, khi lập trình với CCS C hay HT PIC, các bạn cũng nên ghi chú như vậy trong chương trình chính, nhưng chúng ta chưa bàn đến CCS C và HT PIC ở đây.

thay đổi nội dung bởi: falleaf, 24-05-2005 lúc 10:52 PM.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 24-05-2005, 04:13 AM   #3
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Học PIC trong 1 ngày

Phần thứ hai các bạn cần học, đó là khởi tạo PIC. Phần này là phần bắt buộc theo sau phần ghi chú, bởi vì chương trình dịch cần phải hiểu bạn đang làm việc với con PIC nào, làm việc với nó như thế nào?
Code:
;=======================================================
		TITLE 		"Mach test LED_1"
		PROCESSOR	P16F628A
		INCLUDE 	<P16F628A.inc>
		__CONFIG   	_CP_OFF	& _PWRTE_ON & _WDT_OFF &_HS_OSC

;=======================================================
Các bạn sẽ thấy rằng có một số từ khoá như sau:

TITLE: dùng để các bạn ghi chú thích tên chương trình. TITLE là ten chương trình chính. Cú pháp ghi TITLE như trên. Nhớ phải có dấu nháy kép khi viết tên chương trình.

PROCESSOR: dùng để khai báo dòng vi điều khiển mà các bạn sử dụng. Các bạn lưu ý, trong MPLAB quy định, không viết đầy đủ tên PIC16F628A mà chỉ viết P16F628A, vì trong chương trình dịch đã quy định như vậy.

INCLUDE: dùng để đưa thêm vào các file mà bạn viết trong chương trình. Mặc định, trong MPLAB đường dẫn đến thư mục chứa file P16F628A.inc đã có sẵn. Nếu bạn đặt file ở nơi khác không phải trong thư mục bạn đang làm việc, hoặc các file include khong phải là file .inc có sẵn của MPLAB, thì các bạn phải chỉ đường dẫn rõ ràng. Lưu ý rằng, để MPASM dịch được, các bạn phải đặt đường dẫn từ thư mục gốc đến hết tên file (kể cả phần mở rộng của file) không được quá 60 ký tự.

__CONFIG: dùng để thiết lập các chế độ hoạt động của PIC. Các bạn có thể xem để hiểu thêm về các chế độ hoạt động này trong tài liệu

PICmicro
Mid Range MCU Family
Reference Manual

Section 27. Device Configuration Bits
Table 27-1 page 27-7


Tài liệu này có thể download trên trang web của microchip www.microchip.com, keyword: MidRange Manual.

Mỗi directive để đặt chế độ, cách nhau một ký tự &.
Nếu ghi chế độ hoạt động vào đây, các chế độ hoạt động sẽ ở trạng thái mặc định khi khởi động.
Các bạn cũng có cách khác để đặt chế độ hoạt động bằng cách tác động trực tiếp vào các thanh ghi khởi tạo. Tuy nhiên, việc này là việc làm không cần thiết, khi chúng ta đã có các directive để viết tắt.

Như vậy, chúng ta đặt ở đây chế độ _CP_OFF, tức là khôngđặt chế độ bảo vệ source code khi nạp vào PIC, sau khi nạp vào sẽ có thể đọc ngược lại từ PIC ra. Chúng ta không cần bảo vệ chương trình này, để bạn có thể đọc ngược bằng IC-PROG và kiểm tra lại.

Chế độ _PWRITE_ON, tức là cho timer 0 chạy khi Power On Reset. Thực ra timer0 có chạy hay không cũng không quan trọng, vì nó chẳng liên quan gì đến công việc của chúng ta. Nếu sau này muốn dùng timer0, thì các bạn vẫn phải khởi tạo lại giá trị cho nó, chứ đâu thể sử dụng giá trị ngẫu nhiên của nó được, thành ra cứ để cho nó chạy, sau này cần dùng khỏi phải khởi tạo.

_WDT_OFF, tại thời điểm này, tôi tắt Watch Dog Timer vì lý do các bạn chưa nên tìm hiểu phần này vội.

_HS_OSC, chúng ta dùng thạch anh 10MHz, tức là chạy chế độ dao động HS. Tham khảo tại:

datasheet PIC16F628A
Section 14. Special Features of the CPU
14.2. Oscillator Configuration
Page 95
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 24-05-2005, 04:16 AM   #4
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Thế là các bạn biết lập trình cho PIC

Một điểm lưu ý cuối cùng là các bạn phải sử dụng phím TAB để phân cách các cột của một chương trình viết bằng MPASM. Các dòng khởi tạo này được viết ở cột thứ 3. Các directive __CONFIG, TITLE, PROCESSOR, INCLUDE được viết vào cột thứ 3. Còn chi tiết khởi tạo được viết vào cột thứ tư.

Cột thứ nhất dùng để viết các [NHÃN], cột thứ hai để viết mã lệnh, cột thứ ba lại dùng để viết chi tiết các tham số của lệnh, và cột thứ tư bỏ trống để tạo khoảng cách với cột thứ năm. Cột thứ năm dùng để viết các chú thích.

Các chú thích bắt đầu bằng dấu chấm phẩy (. Trên một dòng, tất cả các ký tự viết sau dấu chấm phẩy đều vô nghĩa. Chính vì vậy, khi viết phần chú thích ban đầu, các bạn thấy rằng tất cả nội dung đó đều bắt đầu bằng dấu chấm phẩy. Như vậy, một dòng lệnh được cụ thể như sau:
Code:
NHÃN		LỆNH	thamso1,	thamso2		; chú thích dòng lệnh
Bây giờ chúng ta dành chút thời gian cho lý thuyết, các bạn mở datasheet PIC16F628A trang 15, Section 4. Memory Organization

Chúng ta sẽ thấy rằng tổ chức bộ nhớ chương trình của PIC được chia ra làm mấy phần như sau:

- Pointer
- Stack
- Interrupt vector
- Program memory

Chúng ta tạm thời chưa bàn đến pointer và stack.

Interrupt vector được đặt ở địa chỉ 0x0004
Program memory được đặt ở địa chỉ 0x0005

Vậy từ địa chỉ 0x0000 đến địa chỉ 0x0003 chúng ta làm được gì?

Khi PIC được reset, nó lập tức nhảy về địa chỉ 0x0000. Rồi cứ sau một chu kỳ máy, nó nhảy đến địa chỉ tiếp theo, xem xem trong địa chỉ đó yêu cầu nó làm gì, nó thực hiện việc đó, xong rồi lại nhảy tiếp. Cứ làm như thế cho đến khi hết chương trình. Tất nhiên, khi chúng ta thực hiện một số lệnh điều khiển vị trí nhảy, thì nó sẽ nhảy không theo thứ tự nữa, nhưng việc này chưa bàn vội. Chúng ta trước mắt chỉ cần biết rằng nó cứ nhảy như vậy cho đến hết chương trình.

Như vậy, nếu không sử dụng ngắt, thì chúng ta viết chương trình từ địa chỉ 0x0000 luôn, vì nó cứ thế là nhảy từ 0x0000 khi khởi động, cho đến hết chương trình. Tuy nhiên, nếu làm như vậy, sau này chúng ta sử dụng chương trình ngắt, thì chúng ta sẽ gặp trục trặc vì thói quen viết từ địa chỉ 0x0000.

Chính vì vậy, chúng ta nên đặt chương trình trong phần Program Memory như ý đồ thiết kế PIC.

Vậy, chương trình của chúng ta sẽ viết như sau:
Code:
;====================================================================
		ORG	0x0000
		GOTO	MAIN


		ORG	0x0005
MAIN
.....

		END.
;====================================================================
Đây sẽ là cấu trúc một chương trình mà chúng ta sẽ thực hiện
Directive ORG dùng để xác định địa chỉ mà chúng ta sẽ làm việc.

Bây giờ chúng ta xem tiếp đến trang 16 của datasheet.

Chúng ta thấy rằng, bộ nhớ dữ liệu của PIC16F628A được chia ra thành 4 BANK, hay chúng ta gọi tiếng Việt là 4 BĂNG.

Trong 4 băng này, chúng ta thấy rõ nó được chia làm 3 phần. Phần thứ nhất là phần các thanh ghi có địa chỉ xác định (được ghi chú ở bên cạnh) và có tên tuổi rõ ràng. Những thanh ghi này được gọi là những thanh ghi đặc biệt của PIC. Tên của chúng, thực ra không có, một thanh ghi chỉ được xác định bằng địa chỉ của thanh ghi mà thôi.

Tuy nhiên, chúng ta đã làm động tác include file P16F628A.inc, file này đã định nghĩa sẵn tên các thanh ghi này, và là quy ước của MPLAB, đồng thời cũng là quy ước chung cho tất cả người dùng PIC. Chúng ta có thể thay đổi, sửa chữa những định nghĩa này, tuy nhiên việc làm đó vừa không cần thiết, lại vừa gây ra rất nhiều khó khăn khi làm việc nhóm.

Vậy các bạn phải hiểu, những tên thanh ghi này xem như là không thay đổi trong PIC, và chúng ta sử dụng nó như nó đã tồn tại vài chục năm nay.

Phần thứ hai, đó là phần General Purpose Register. Chúng ta gọi nó là các Thanh Ghi Dùng Chung. Những thanh ghi này chưa được định nghĩa, và vì thế nó cũng không có tên. Những thanh ghi này có giá trị như các biến trong chương trình mà chúng ta sẽ sử dụng.

Phần thứ ba, đó là các thanh ghi nằm ở địa chỉ 70h đến 7Fh, và vị trí tương ứng của nó ở băng 1, 2, 3. Các thanh ghi tương ứng đó ở bank1, 2, 3 sẽ tương thích với các thanh ghi từ 70h đến 7Fh ở băng 0. Tuy nhiên, chúng ta tạm thời chưa quan tâm đến phần này.

Bây giờ chúng ta học viết chương trình
Code:
;===============================================================================
		ORG	0x0000
		GOTO	MAIN


		ORG	0x0005

MAIN		
		BANKSEL	TRISB		; bank select
		CLRF		TRISB		; trisb = 00000000
						; portb = output
		BANKSEL	PORTB
		BSF		PORTB,	0	; rb0 = 1
						; RB0 = 5V
		GOTO		$		; dung chuong trinh tai day
						; vong lap tai cho^~
						; khong bao gio ket thuc
		END.				; lenh bat buoc de ket thuc
;================================================================================
Rồi, như vậy, chúng ta đã thực hiện xong một chương trình viết bằng MPASM cho PIC16F628A.

Phân tích chương trình, chúng ta sẽ thấy, mới khởi động, chương trình gặp lệnh goto main, nó sẽ nhảy đến nhãn MAIN. Ở nhãn MAIN, nó gặp lệnh banksel, tức là lệnh bank select. Có nghĩa là nó sẽ chuyển sang hoạt động ở băng có chứa thanh ghi TRISB.

Vì sao? Bởi vì ban đầu khởi động, PIC luôn nằm ở băng 0. Nhưng thanh ghi TRISB lại nằm ở băng 1, vì thế cần phải chuyển sang băng 1 để làm việc. Thực ra chúng ta cũng có cách để yêu cầu PIC chuyển sang băng 1 một cách đích danh, chứ không phải là chuyển sang băng có thanh ghi trisb như chúng ta vừa làm. Nhưng việc này là không cần thiết, cả hai việc làm đều giống nhau. Chính vì vậy, chúng ta chọn cách viết nào cho dễ nhớ là được.

Sau khi chuyển sang băng 1. Chúng ta dùng lệnh CLRF để xoá thanh ghi TRISB.

Tức là TRISB = 00000000

Chúng ta lưu ý một điều rằng, thanh ghi TRISB có công dụng quy định PORTB sẽ có những chân nào là chân xuất, chân nào là chân nhập. Chúng ta nhớ thêm một điều nữa, số 0 giống chứ O, và số 1 giống chữ I. Như vậy, khi TRISB = 00000000 tức là PORTB sẽ là OOOOOOOO, tức có nghĩa là tất cả các chân của portB đều là Output. Nếu TRISB = 01010101 thì PORTB sẽ là OIOIOIOI. Có nghĩa là RB0 sẽ là Input, RB1 là Output, RB2 là Input, RB3 là Output.. cứ như thế cho đến RB7 là Output. Lưu ý rằng RB0 đến RB7 được tính từ phải sang trái.

Sau đó, chúng ta lại thực hiện lệnh Banksel portb, tức là chúng ta lại nhảy về băng 0 (băng chứa thanh ghi portb).

Tất cả các lệnh làm thay đổi giá trị của thanh ghi portb, sẽ làm thay đổi tín hiệu điện ở bên ngoài chân của PORT B.

Sau khi chuyển sang băng 0, chúng ta thực hiện lệnh BSF PORTB,0. Có nghĩa là chúng ta set bit ở vị trí 0 của portb, tức là chúng ta cho RB0 = 1.

Có nghĩa là ở ngoài chân RB0 sẽ mang giá trị điện áp 5V. Khi đó, đèn LED nối với RB0 sẽ sáng.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 24-05-2005, 04:18 AM   #5
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Bài tập

Các bạn sẽ thấy mach ngoài hoạt động như thế này:

Khi bật điện lên, PIC được reset. Nó lập tức bật sáng đèn LED ở RB0, rồi sau đó giữ nguyên như vậy, không làm gì cả.

Bây giờ các bạn lưu chương trình vừa viết thành LED_1.asm vào một thư mục nào đó.
Nhấn Alt - F10, chương trình sẽ dịch LED_1.asm thành LED_1.hex

Các bạn dùng mạch nạp PG2C và chương trình nạp IC-PROG để nạp vào PIC (tham khảo Hướng dẫn mạch nạp Falleaf PG2C - PIC Tutorial).

Công việc của các bạn như sau:

0) Chạy thử chương trình ban đầu

1) Thay đổi lệnh BSF PORTB, 0 bằng lệnh BSF PORTB, 1. Nạp lại chương trình mới vào PIC. Bạn sẽ thấy bây giờ đèn LED không sáng ở vị trí RB0 nữa mà sáng ở vị trí RB1.

2) Thay lệnh BSF PORTB,0 bằng đoạn lệnh

MOVLW b'11110000'
MOVWF PORTB

Bạn sẽ thấy các các chân từ RB0 đến RB3 sẽ tắt đèn, và các chân từ RB4 đến RB7 đèn sẽ sáng.

3) Bạn thay lệnh CLRF TRISB bằng đoạn lệnh

CLRF TRISB
BSF TRISB, 0

và giữ nguyên lệnh
BSF PORTB, 0

Các bạn sẽ thấy rằng đèn LED trong trường hợp này sẽ không sáng nữa.
Bởi vì các bạn đã làm cho TRISB = 00000001. Như vậy, RB0 trở thành chân Input. Khi RB0 trở thành chân Input, thì lệnh BSF PORTB, 0 sẽ không còn tác dụng nữa. RB0 lúc này không thể thay đổi giá trị bằng chương trình, nó chỉ có thể nhận giá trị điện áp từ bên ngoài vào.

4) Trong trường hợp mạch này, các bạn sẽ làm thế nào?



Kết luận: Qua bài học này, các bạn đã học được các nội dung sau:

- Làm một mạch chạy PIC
- Cấu trúc một chương trình PIC
- Lập trình từ máy tính, nạp vào PIC, và cho PIC hoạt động
- Hiểu được hoạt động xuất nhập của PIC, chức năng của thanh ghi TRISA, TRISB, PORTA, PORTB, hiểu được các lệnh CLRF (xoá thanh ghi bất kỳ), MOVLW (ghi một giá trị bất kỳ vào thanh ghi W), MOVWF (ghi giá trị của thanh ghi W vào một thanh ghi khác), BSF (bật một bit trong một thanh ghi bất kỳ), GOTO (nhảy đến một nhãn bất kỳ), GOTO $ (nhảy tại chỗ), BANKSEL (chon băng trong bộ nhớ chương trình, chứa một thanh ghi bất kỳ), ORG định địa chỉ trong bộ nhớ chương trình.

Hiện nay các bạn chưa học đến làm thế nào để Input, nhưng có thể các bạn sẽ thực hiện dễ dàng bằng việc thay LED bằng một nút bấm. Hoặc giả, các bạn muốn đèn LED nhấp nháy, về nguyên tắc các bạn có thể thực hiện bật tắt liên tục đèn LED bằng lệnh BSF và BCF. Nhưng làm như thế nó nháy quá nhanh, không thể thấy được.

Bài học sau, chúng ta sẽ học cách viết hàm Delay, và các bạn có thể thực hiện việc làm cho đèn LED nhấp nháy, làm cho dãy đèn từ RB0 đến RB7 chạy qua chạy lại...

Chúc các bạn may mắn trong bài học đầu tiên, và chúc các bạn thành công với PIC!

thay đổi nội dung bởi: falleaf, 24-05-2005 lúc 10:54 PM.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 26-05-2005, 10:54 PM   #6
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Hàm DELAY

Học vi điều khiển PIC trong 1 ngày

Qua bài học thứ nhất, chúng ta đã học về cách bật tắt một đèn LED. Bây giờ nếu muốn làm cho đèn LED nhấp nháy, có nghĩa là chúng ta bật đèn LED, sau đó chờ một khoảng thời gian, và tắt đèn led đó đi, sau đó lại chờ một khoảng thời gian nữa và lại bật đèn led lên. Muốn thực hiện việc này, chúng ta phải tìm cách làm một hàm delay (delay - tiếng Anh có nghĩa là trễ, chậm lại)

Hàm DELAY là một hàm rất thông dụng khi lập trình thời gian thực. Nguyên lý của hàm delay là dùng thời gian thực hiện các lệnh của vi điều khiển để làm thời gian trễ. Như các bạn đã biết (nếu chưa biết thì bây giờ biết.. hihi), mỗi lệnh của vi điều khiển, khi thực hiện, cần phải tốn một khoảng thời gian nào đó. Nếu một việc làm mà không tốn thời gian thì đúng là vô lý. Vậy thời gian thực hiện một lệnh của PIC là bao lâu?

Như trong bài học đầu tiên chúng ta đã đề cập, chúng ta sử dụng thạch anh từ 4MHz đến 10MHz và đến 20MHz. Thạch anh này tạo ra các dao động xung nhịp chính xác để duy trì những khoảng thời gian xác định cho vi điều khiển hoạt động.

Chúng ta xem hình sau để hiểu được nguyên lý tạo dao động bên trong vi điều khiển:

Hình 1:



Thạch anh tạo dao động trên các chân OSC, đưa vào bên trong PIC. PIC sẽ đếm 4 nhịp trên dao động thạch anh, và để thực hiện một lệnh. Như vậy, thời gian thực hiện một lệnh chính là 4 nhịp dao động của thạch anh.

Chúng ta thường gọi thời gian thực hiện một lệnh của PIC là một chu kỳ máy (đoạn số 2 trên hình). Vậy một chu kỳ máy bằng bao nhiêu, nếu chúng ta sử dụng thạch anh 10MHz cho PIC?

Code:
Tần số dao động của thạch anh:
F_osc = 10MHz
Chu kỳ của dao động thạch anh:
T_osc = 1/10.000.000 s
Chu kỳ máy
T_instruction = 4 * T_osc = 4/10.000.000 s = 0.0000004 s = 0.0004 ms = 0.4 us = 400 ns
Như vậy, một lệnh máy được thực hiện trong vòng 0.4 micro giây, hay 400 nano giây.

Tương tự, khi các bạn dùng thạch anh 4MHz, chu kỳ máy sẽ là 1us, và dùng thạch anh 20MHz, chu kỳ máy sẽ là 200 nano giây.

Quay trở lại với việc nếu chúng ta cần thực hiện một việc gì đó giống như nhấp nháy đèn LED, thì chúng ta cần PIC phải dừng lại, không làm gì cả để chờ chúng ta. Nếu như lệnh NOP (lệnh không làm gì) sẽ giúp chúng ta chờ 0.4 us, mà chúng ta cần chờ 1 giây, thì chúng ta viết bao nhiêu lệnh NOP cho đủ?

Thay vì như vậy, chúng ta viết một vòng lặp để cho vi điều khiển làm một việc vô thưởng vô phạt nào đó N lần, và mỗi lần như vậy nó tốn T chu kỳ máy. Như vậy, sau khi kết thúc việc làm vô thưởng vô phạt đó, vi điều khiển đã chờ chúng ta N * T chu kỳ máy.

Để viết một vòng lặp như vậy, trước tiên chúng ta học cách đặt biến.

Một biến được đặt trong PIC, thực chất là một tên gọi chung cho một hoặc nhiều thanh ghi các giá trị. Trong phần này, chúng ta chỉ đơn giản làm đặt biến có nghĩa là đặt tên cho một thanh ghi. Thực ra, chúng ta hoàn toàn không cần đặt tên, mà có thể gọi trực tiếp địa chỉ của thanh ghi, nhưng nếu làm như vậy, sau này, khi chương trình phức tạp dần lên, chúng ta sẽ dễ bị lẫn lộn các biến.

Khi đặt biến, thanh ghi này nằm ở đâu? Nó sẽ nằm trong bộ nhớ chương trình và cụ thể, nó sẽ nằm trong vùng nhớ dùng chung mà chúng ta đã đề cập trong bài học trước.

Vậy làm thế nào để đặt biến? Có rất nhiều cách đặt biến, và trong phần này, tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách đặt biến mà tôi cho rằng rõ ràng nhất.

Code:
;==================================================================

			ORG 0x020
COUNT_L	RES	1
COUNT_H	RES	1
COUNT_N	RES	3

;==================================================================
Các bạn vừa làm gì?

Directive ORG dùng để xác định địa chỉ vùng nhớ. Các bạn lưu ý rằng, khi xác định địa chỉ vùng nhớ ở đây, chính là các bạn xác định địa chỉ vùng nhớ dữ liệu, chứ không phải địa chỉ vùng nhớ lập trình. Những gì các bạn viết phía bên dưới, sẽ giúp cho trình dịch hiểu được rằng các bạn đang làm việc trong vùng nhớ lập trình, hay vùng nhớ dữ liệu

Directive RES quy định việc đặt biến. Số 1 phía sau xác định rằng biến có tên COUNT_L chiếm 1 thanh ghi 8 bit, tức là 1 byte.

Tiếp theo, các bạn lại đặt biến tên là COUNT_H. Như vậy, biến COUNT_H cũng chiếm 1 byte.

Câu hỏi đặt ra là các thanh ghi này nằm ở đâu?

Các bạn lưu ý, khi các bạn dùng directive ORG, là các bạn đã xác định nơi bắt đầu đặt biến. Như vậy, biến COUNT_L sẽ có độ dài 1 byte, và được đặt ở địa chỉ 0x020 tức là địa chỉ đầu tiên của vùng nhớ dữ liệu dùng chung trong băng 0 (20h)

Vì COUNT_L đã chiếm 1 byte. Do đó, biến COUNT_H sẽ chiếm byte tiếp theo, và địa chỉ đầu tiên của COUNT_H sẽ là 21h, nhưng COUNT_H cũng chỉ có 1 byte, cho nên nó chính là thanh ghi ở địa chỉ 21h. Đến biến COUNT_N, tương tự, địa chỉ đầu tiên của nó sẽ là 22h. Biến COUNT_N chiếm 3 thanh ghi, như vậy, biến COUNT_N sẽ nằm từ 22h, 23h đến 24h. Nếu tiếp tục đặt thêm các biến khác, các biến đó sẽ bắt đầu từ địa chỉ 25h, cứ như thế.

Vậy muốn đặt biến ở các băng khác thì làm thế nào? Các bạn cứ lấy địa chỉ đầu của vùng nhớ dữ liệu dùng chung của băng đó và viết như sau:

Code:
;=================================================
			ORG	0x0A0h

COUNT_X	RES	10
;=================================================
Tóm lại, để chuẩn hoá một chương trình, các bạn chép đoạn code này vào, và sau đó không bao giờ còn phải viết lại nữa:

Code:
;=======================================================================

;-----------------------------------
; Bien nam o Bank0
;-----------------------------------
			ORG	0x020

COUNT_L	RES	1
COUNT_H	RES	1

;----------------------------------
; Bien nam o Bank1
;----------------------------------

			ORG	0x0A0

COUNT1_L	RES	1

;---------------------------------
; Bien nam o Bank2
;---------------------------------
			ORG	0x120

;========================================================================
Như vậy, một chương trình tổng quát bây giờ sẽ trở thành như thế nào?

Code:
;========================================================================
; Phần chú thích ban đầu
;
;========================================================================
; Phần khởi tạo vi điều khiển
			TITLE
			PROCESSOR
			INCLUDE
			__CONFIG

;========================================================================
; Phần đặt biến

;-------------------------------------
; Biến ở băng 0
;-------------------------------------
			ORG	0x020
;------------------------------------
; Biến ở băng 1
;------------------------------------
			ORG	0x0A0
;------------------------------------
; Biến ở băng 2
;------------------------------------
			ORG	0x120

;=========================================================================
; Phần chương trình chính
			ORG	0x0000
			GOTO	MAIN


			ORG	0x0005
MAIN
; 			những dòng lệnh được viết ở đây
			END
;==========================================================================
Như vậy, chúng ta đã biết cách viết một chương trình đầy đủ dành cho vi điều khiển PIC bằng ngôn ngữ MPASM.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 07-06-2005, 10:43 PM   #8
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Nút bấm

Các bạn vừa biết khái niệm ngắt, và đã biết chương trình ngắt được viết như thế nào. Vậy bây giờ chúng ta chuyển đến bài tiếp theo về nút bấm.

Công dụng của nút bấm

Nút bấm là một hình thức ra lệnh phổ biến nhất trên thế giới. Bạn gọi một cái thang máy, bạn bấm nút, bạn kêu cửa thì bấm chuông, bạn bật đèn thì bấm nút công tắc, và tôi đang ngồi viết cho bạn bằng cách bấm nút bàn phím...

Như vậy, bạn đã biết công dụng của cái nút bấm. Bây giờ các bạn sẽ học cách làm một cái nút bấm!!! Điều này có vẻ buồn cười, nhưng với vi điều khiển, và máy tính, khả năng xử lý các lệnh rất đa đạng. Bạn có thể bấm cùng một nút, nhưng lệnh sẽ khác nhau ở mỗi thời điểm, và mỗi trạng thái. Ví dụ, như bạn nhấp chuột máy tính, thực ra cũng là bạn nhấp nút bấm, nhưng bạn thấy rõ ràng rằng, ở những vị trí di chuyển chuột khác nhau, nút bấm của chuột sẽ đưa ra các mệnh lệnh khác nhau cho máy tính thực hiện.

Một số trạng thái nút bấm thông dụng

Trạng thái nút bấm ra lệnh tức thời, đó là khi bạn bấm nút, lập tức mọi trạng thái phải được kiểm tra và chương trình dừng lại để thực hiện lệnh từ nút bấm của bạn. Có nghĩa là bạn ra lệnh tại thời điểm bấm nút, và máy hiểu rằng bạn đã bấm nút. Còn việc xử lý thế nào thì hồi sau phân giải.

Trạng thái chờ nút bấm, đó là chương trình bạn đang chạy, đến một giai đoạn nào đó, nó cần phải có sự ra lệnh của bạn bằng nút bấm, và chương trình chờ bạn bấm nút để chạy tiếp, hoặc bắt đầu một công việc nào đó sau khi chờ.

Nhắc lại thao tác bấm nút một chút, cái nút của bạn đang ở trên cao, bạn bấm nó xuống thì nó sẽ có một giai đoạn nút bấm đi xuống, khi chạm vào mạch điện, hiển nhiên bạn muốn hay không muốn thì cũng phải có một khoảng thời gian bạn giữ cho nút bấm tiếp xúc với mạch điện, sau đó là giai đoạn bạn thả nút bấm ra.



Theo dõi hình trên, chúng ta thấy. Khi bấm nút, có quá trình đi xuống của nút bấm, và quá trình đi lên của nút bấm. Nhưng thực tế, đối với mạch điện trong nút bấm, nó chỉ có thể nhận được trạng thái tiếp xúc hoặc không tiếp xúc, nên tín hiệu nhận được sẽ như đường màu xanh trong hình dưới. Chúng ta chỉ quan tâm đến trạng thái của đường màu xanh trong các ứng dụng của nút bấm.

Vậy, trạng thái nút bấm lại có thêm 3 trạng thái nữa là trạng thái bấm xuống, trạng thái giữ nút bấm, và trạng thái nhả nút bấm lên. Kết hợp với 2 trạng thái điều khiển trên, chúng ta có 6 trạng thái phổ biến của nút bấm. Các bạn lưu ý rằng, chúng ta có 6 trạng thái chứ không phải chỉ có 4 trạng thái, vì thực ra rất nhiều người cho rằng chỉ có 4 trạng thái khi cho rằng trạng thái chờ trong lúc giữ nút bấm không phải là trạng thái phổ biến. Nhưng nếu các bạn đã từng dùng điện thoại di động thì các bạn thấy số người dùng trạng thái chờ của nút bấm cũng không phải là con số nhỏ.

Ở đây, tôi muốn tán dóc một chút rằng, khi các bạn làm việc về khoa học kỹ thuật, và đến một khi các bạn khó có thể tìm ra đường hướng suy nghĩ để giải quyết một vấn đề khoa học kỹ thuật, hãy tìm mối liên hệ với nó trong khoa học xã hội. Chính vì vậy, các bạn thường thấy tôi hay đưa ra những ví dụ xã hội để minh hoạ cho vấn đề kỹ thuật cần được giải quyết.

Tôi sẽ dành việc ứng dụng từng trạng thái nút bấm phổ biến trong các ứng dụng cho các bạn, còn ở đây, tôi chỉ muốn nhân bài học này để tiếp tục bài học về interrupt mà chúng ta đã bỏ dở trước đó.

Vậy chúng ta chỉ xét trạng thái khi bấm nút, lập tức lệnh sẽ được thực hiện, tức trạng thái tức thời của nút bấm.

Các bạn hãy làm bài tập thực hành, thực hiện một mạch điện tử như hình sau để chuẩn bị cho bài học của chúng ta.



Trong mạch điện này, chúng ta thấy có một vài điểm đặc biệt khi có 1 nút bấm nối giữa chân của PIC và nguồn, còn các nút bấm khác lại nối chân của PIC với đất.

Giữa nguồn và đất luôn có một điện trở 10K. Vì sao chúng ta phải nối mạch điện như vậy? Chúng ta tạm dừng bài học về nút bấm ở đây và theo dõi bài học cơ bản về điện tử tiếp theo.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 07-06-2005, 10:48 PM   #9
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Điện tử cơ bản

Điện tử cơ bản

Giới thiệu

Đây là phần rất cơ bản về điện tử, mà các bạn khi bắt đầu làm việc với vi điều khiển cần phải nắm rõ. Như đã nói, PIC tạo ra dòng điện khoảng 20mA và điện áp khoảng 5V, tương tự như vậy, nếu dòng ngõ vào quá cao so với 20mA và điện áp ngõ vào quá cao so với 5V, thì PIC sẽ bị hư.

Vì vậy, bài học này trang bị cho các bạn một số khái niệm cơ bản về điện tử, để các bạn có thể nắm vững nguyên lý thiết kế mạch và tính toán các giá trị điện trở cần thiết. Đáng lẽ bài học này cần được thực hiện ngay từ đầu, tuy nhiên, tôi cho rằng bài tập đèn LED quá đơn giản, các bạn chưa biết gì cũng có thể hiểu được, nhưng nay, nếu như các bạn mới học về điện tử và vi điều khiển không được trang bị kiến thức cơ bản này, có thể làm cho các bạn lúng túng vì một số điểm không được làm rõ trong mạch điện tử.

Hiện tượng trôi điện áp

Các bạn xem hình sau:



Chúng ta cho rằng ngõ vào của PIC, cũng giống như ngõ vào của một linh kiện điện tử thông dụng là 74HC04. Thay vì vẽ một cái chân PIC, thì chúng tôi vẽ hình một con 74HC04 cho nó đơn giản, và để các bạn dễ hình dung. Nếu để một con PIC lên một hình thì quá phức tạp hình ảnh, và lại không cần thiết. Hơn nữa, bài viết này được tham khảo từ tài liệu Very Basic Circuits của Encoder, và trong trang web này, người ta sử dụng 74HC04 để làm thí dụ, tôi tôn trọng ví dụ này nên khi viết lại bài viết cũng sử dụng 74HC04 giống như họ.

Các bạn thấy, nếu như nút bấm được nhấn xuống, thì ngõ vào của 74HC04 hay PIC được nối với Mass. Như vậy, lúc đó PIC có thể đọc giá trị 0. Tuy nhiên, nếu nút nhấn được thả ra, chúng ta thấy rằng ngõ vào của PIC chẳng được nối với một linh kiện nào, vậy là điện áp ở chân của PIC sẽ trôi nổi không xác định được. Nếu không may mắn, điện áp trôi nổi này rơi vào vùng logic 0, rồi lại nhảy sang vùng logic 1... thì các bạn thấy rõ ràng chúng ta không thể xác định được nút bấm có được bấm hay không?!!

Vì vậy, để đảm bảo, nếu khi không bấm nút, PIC phải có điện áp tham khảo là 5V, sau khi bấm nút thì điện áp sẽ giảm xuống 0V, như vậy mức logic mới thật rõ ràng, không thể để trôi nổi như hình trên. Vậy chúng ta có hình dưới đây

falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 07-06-2005, 10:49 PM   #10
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Điện tử cơ bản (tt)

Công dụng của điện trở kéo lên

Các bạn lại thấy, nếu bây giờ không bấm nút, thì điện áp ngõ vào của PIC sẽ là 5V. Nhưng nếu bấm nút một cái, rõ ràng chúng ta gây ra ngắn mạch khi nối trực tiếp từ nguồn xuống đất.

Chính vì vậy, chúng ta phải đưa thêm vào một điện trở giữa đất, nút bấm và nguồn.

Có hai vấn đề đặt ra, đó là điện trở sẽ đặt ở đâu, và giá trị của nó bằng bao nhiêu.

Chúng ta xem hình này:



Các bạn sẽ bực mình ngay rằng, đúng là thằng ngốc mới đặt điện trở như thế này, bởi vì nếu đặt điện trở như vậy, dù bạn có bấm nút hay không bấm nút thì điện áp ngõ vào vẫn luôn luôn là 5V, vậy nút bấm trở nên vô nghĩa.

Thế thì chỉ còn một cách đặt điện trở như hình tiếp theo đây:



Vậy vấn đề còn lại là giá trị điện trở bẳng bao nhiêu?

Các bạn sẽ thấy, PIC hoạt động ở 20mA và 5V trên các chân. Vì vậy, khi chưa bấm nút, nguồn 5V được nối với điện trở và đi vào chân của PIC. Nếu như trong một trường hợp nào đó chân của PIC chuyển từ chế độ input sang output, thì vấn đề xảy ra là dòng trên chân phải đảm bảo nhỏ hơn hoặc bằng 20mA. Như vậy, trong thiết kế trên, chúng ta xem dòng tại chân PIC nếu PIC đặt ở 0V là

I = U/R = 5V/ 10000 Ohm = 5mA

Như vậy, thiết kế này đảm bảo cho hoạt động của PIC được an toàn.

Khi đóng nút bấm dòng 5mA này sẽ đi xuống đất, và chân của PIC được nối với đất.

Các bạn xem tiếp hình sau:



Trường hợp này, nút bấm được nối với nguồn 5V. Điện trở nối giữa chân của PIC với đất sẽ không làm cho PIC có hiện tượng trôi nổi điện áp, và khi đóng nút bấm thì dòng vẫn ở 5mA.

Tổng kết:

Qua bài học này, các bạn đã hiểu được cơ bản về khái niệm điện trở kéo lên (trường hợp điện trở nối với nguồn), và điện trở kéo xuống (trường hợp điện trở nối với đất). Giá trị điện trở được đặt ở đây nhằm loại bỏ hiện tượng ngắn mạch, và đảm bảo ngõ vào của PIC khoảng 20mA. Khi an toàn, cần thiết kế sao cho ngõ vào nhỏ.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 02-07-2005, 06:00 PM   #11
tuanva
Đệ tử 2 túi
 
Tham gia ngày: Jun 2005
Bài gửi: 33
:
Re: Nút bấm

Phần nút bấm falleaf có thể cho 1 đoạn code mẫu (dùng cho mạch trong bài này) được không?
__________________
I'm beginner.
tuanva vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 03-07-2005, 12:08 AM   #12
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Hiện nay tôi đang khá bận, cho nên các câu hỏi của các bạn, tôi sẽ trả lời sau.

Tôi đề nghị rằng chúng ta nên tạo ra một cái luồng khác để thảo luận, và đặt các câu hỏi ngắn. Phần bài viết này có lẽ các bạn chỉ nên nói về những cái đúng, cái sai trong bài viết của tôi, và những đề nghị cải tiến, hoặc những sản phẩm minh họa mà các bạn đã thực hiện từ bài viết này.

Bởi vì những bài viết này, sau này sẽ được tổng hợp thành tutorial về PIC, và tôi không đủ khả năng một mình viết hết tất cả các vấn đề như các cuốn sách lớn khác, nên tôi rất cần sự bổ sung sản phẩm thực tế của các bạn, sẽ làm cho cuốn sách có giá trị hơn.

Vì nếu không, các bạn cứ đặt câu hỏi ở đây, luồng này sẽ rất dài, và gây khó khăn cho người đọc.

Chân thành cảm ơn.

Falleaf.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 03-07-2005, 12:50 AM   #13
zero2one
Đệ tử 1 túi
 
Tham gia ngày: Jun 2005
Bài gửi: 19
:
OK, ủng hộ bác falleaf.
zero2one vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 11-07-2005, 10:45 PM   #14
falleaf
PIC Bang chủ
 
falleaf's Avatar
 
Tham gia ngày: May 2005
Bài gửi: 2,631
:
Send a message via Yahoo to falleaf
Hướng dẫn về thanh ghi W

Thanh ghi W



Trong bài này, chúng ta nói đôi nét về thanh ghi W để các bạn nắm rõ hơn phương thức hoạt động của PIC.

Khái niệm thanh ghi W:

Thanh ghi W là thanh ghi làm việc (Working register), và hầu hết mọi lệnh của PIC đều liên quan đến thanh ghi W này, lấy thí dụ như ADDLW (cộng một số vào giá trị đã có trong thanh ghi W), SUBWF (trừ giá trị của thanh ghi W cho một thanh ghi khác), XORLW (lấy XOR của một số và thanh ghi W)... Và các bạn để ý rằng, tổng số lệnh có thể tương tác với thanh ghi W là 23/35 lệnh, gần như chiếm toàn bộ tập lệnh của PIC. Vậy chúng ta ghi nhận điều thứ nhất, khi PIC làm việc, gần như luôn luôn tương tác với thanh ghi W.

Điều thứ hai, các bạn nhìn trong bản đồ bộ nhớ dữ liệu của PIC, các bạn sẽ thấy là thanh ghi W là thanh ghi không có mặt ở bất kỳ băng nào của bộ nhớ dữ liệu, trong khi đó thanh ghi STATUS có mặt ở cả 4 băng. Các bạn lại thấy một điều rằng, thanh ghi W và thanh ghi STATUS có thể được truy nhật từ tất cả các băng, và từ bất kỳ đâu trong chương trình, và vì vậy chúng trở thành những thanh ghi toàn cục nhất. Điểm khác biệt giữa chúng ra sao? Đâu là sự khác biệt giữa thanh ghi W và các thanh ghi khác?

Điểm thứ ba, trong tập lệnh của PIC, không có lệnh nào cho phép tương tác trực tiếp giữa một thanh ghi trong bộ nhớ dữ liệu dùng chung với một giá trị thêm vào, mà đều phải thông qua thanh ghi W. Như vậy, thanh ghi W là cầu nối của hầu hết các phép toán được thực hiện trên các thanh ghi nằm trong bộ nhớ dữ liệu.

Như vậy, thanh ghi W vô cùng quan trọng trong hoạt động của PIC.

Nhắc lại kiến trúc Harvard và Von Newmann:

Hình sau sẽ gợi lại cho các bạn nhớ về kiến trúc Harvard và Von Newmann, trong đó các bạn luôn nhớ rằng có sự phân biệt giữa bộ nhớ dữ liệu và bộ nhớ chương trình. Các bạn thấy rằng bus bộ nhớ chương trình của PIC midrange chỉ có 14 bit.


Với đặc điểm này, chúng ta sẽ phân tích vì sao cần phải có thanh ghi W, và sau đó chúng ta sẽ phân tích tất cả các hoạt động của thanh ghi W trong một chương trình viết bằng PIC, nếu có thể. Những gì còn lại, chúng ta sẽ xem trong bài tập lệnh của PIC midrange.

Vì sao cần phải có thanh ghi W?

Bạn sẽ làm thế nào để tính phép toán sau: lấy giá trị a của thanh ghi A cộng với giá trị b của thanh ghi B và đặt vào thanh ghi A? Một giới hạn của tập lệnh PIC là không cho phép cộng hai thanh ghi và đặt vào một thanh ghi khác. Do đó, các bạn sẽ phải thực hiện thao tác sau:

Chuyển giá trị b từ thanh ghi B vào thanh ghi W, sau đó lấy giá trị của thanh ghi W (lúc này là b) cộng với giá trị a ở thanh ghi A, sau đó gán lại vào thanh ghi A. Đoạn code được thực hiện như sau:

Code:
MOVF	B,	W		; chuyển giá trị của thanh ghi B vào thanh ghi W
ADDWF	A,	F		; cộng giá trị của thanh ghi A với giá trị b của thanh ghi W và gán lại vào A
Khi các thanh ghi A và B không nằm trong cùng một băng, khi thao tác với từng thanh ghi, các bạn chỉ việc đổi về băng chứa các thanh ghi đó là xong. Một đoạn lệnh hoàn chỉnh có thể thực hiện cho bất kỳ 2 thanh ghi nào được viết như sau:

Code:
		BANKSEL	B
		MOVF		B,	W
		BANKSEL	A
		ADDWF		A,	F

Đoạn chương trình này cũng minh hoạ luôn cho việc thanh ghi W là một thanh ghi toàn cục, khi chúng ta thao tác với thanh ghi B ở một băng bấ kỳ, nhưng khi chuyển giá trị b từ thanh ghi B vào thanh ghi W rồi, thì chúng ta không cần quan tâm rằng giá trị đó nằm ở đâu, chỉ cần chuyển về băng chứa thanh ghi A thì lệnh cộng sẽ được thực hiện một cách dễ dàng.

Một thí dụ khác về lệnh cộng, nhưng không phải là cộng giá trị nằm trong 2 thanh ghi, mà là cộng giá trị a của thanh ghi A với một số k cho trước nào đó, giả sử k = 5 và lưu vào thanh ghi A.

Chúng ta thấy rằng, hoàn toàn trong tập lệnh không có lệnh cộng trực tiếp một thanh ghi với một số, mà chỉ có lệnh cộng một số với thanh ghi W. Như vậy chúng ta phải thực hiện thao tác sau: chuyển giá trị a từ thanh ghi A vào thanh ghi W, cộng thanh ghi W với hằng số k = 5, sau đó chuyển giá trị mới của thanh ghi W trở lại thanh ghi A. Điều này được thực hiện như sau:

Code:
		MOVF		A,	W
		ADDLW		d'5'
		MOVWF		A
Trong thí dụ này, chúng ta sẽ không thấy W là một biến tạm nữa, mà trở thành một thanh ghi dùng để lưu kết quả cộng với một con số. Đến bây giờ, thì chúng ta sẽ giả thích rõ hơn vì sao chúng ta phải làm như vậy.

Chúng ta thấy rõ ràng rằng, một dòng lệnh của PIC midrange, được mô tả bằng 14 bit. Điều này có nghĩa là, khi thực hiện một lệnh cộng, không thể nào dòng lệnh đó vừa lưu địa chỉ của thanh ghi A, vừa lưu giá trị 8 bit của hằng số k được, vì một thanh ghi trong dòng PIC midrange cần tối thiếu 7 bit để biểu diễn địa chỉ thanh ghi, và một hằng số chiếm 8 bit. Nó vượt quá con số 14 bit cho phép để mã hoá lệnh. Chính vì vậy, không thể thực hiện lệnh cộng trực tiếp từ một thanh ghi với một số được. Quay lại thí dụ ở trên, chúng ta cũng thấy rằng không thể thực hiện việc cộng hai thanh ghi với nhau, nếu như cần lưu 2 địa chỉ thanh ghi, chúng ta sẽ mất 14 bit, và như vậy không có các bit mã hoá mô tả lệnh cần thực hiện là gì.

Đây chính là điểm khác biệt giữa tập lệnh RISC và tập lệnh CISC. Tập lệnh CISC có thể thực hiện lệnh phức, vì nó có thể tạo ra một lệnh dài 8 bit, 16 bit, 24 bit... và là bộ số của 8 bit. Do đó, nếu cần cộng 2 thanh ghi 8 bit, nó hoàn toàn có thể tạo ra một lệnh dài 24 bit, trong đó 8 bit dùng để mã hoá, 8 bit dành cho địa chỉ của thanh ghi thứ nhất, 8 bit dành cho địa chỉ cua thanh ghi thứ 2. Trong khi đó, tập lệnh CISC là tập lệnh rút gọn, cho dù nó là lệnh gì, nó cũng luôn luôn chỉ có 14 bit (đối với PIC midrange).

Thanh ghi W giống như một thanh ghi mặc định duy nhất, vì vậy, khi thực hiện, bộ xử lý trung tâm có thể giải mã được nếu lệnh đó có cần thao tác với thanh ghi W hay không, mà không cần lưu địa chỉ của thanh ghi W bên trong đoạn mã lệnh.

Chúng ta xem hình dưới đây để biết được bộ xử lý logic hoạt động như thế nào với thanh ghi W.


Vậy chúng ta đã thấy rõ sự cần thiết của thanh ghi W, bởi vì chúng ta cần có một thanh ghi tạm cho các công việc tính toán, và chúng ta cần mã hoá thanh ghi mà không cần tốn quá nhiều bit, vậy thì thanh ghi W vừa là thanh ghi có tính toàn cục, vừa là thanh ghi tạm, vừa là thanh ghi không cần thiết nhiều bit để biểu diễn địa chỉ.

Các bạn đã biết vì sao chúng ta phải cần thanh ghi W, bây giờ chúng ta cần biết thanh ghi W hoạt động như thế nào trong các chương trình của PIC.

thay đổi nội dung bởi: falleaf, 11-07-2005 lúc 10:59 PM.
falleaf vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Old 10-10-2005, 10:43 PM   #15
planandwork
Nhập môn đệ tử
 
Tham gia ngày: Sep 2005
Bài gửi: 8
:
tuyệt quá tuyệt quá .
em phải mua ngay 1 mạch nạp pic mới được .
planandwork vẫn chưa có mặt trong diễn đàn   Trả Lời Với Trích Dẫn
Trả lời

Ðiều Chỉnh
Xếp Bài

Quyền Sử Dụng Ở Diễn Ðàn
You may not post new threads
You may not post replies
You may not post attachments
You may not edit your posts

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt

Chuyển đến


Múi giờ GMT. Hiện tại là 05:04 PM.


Được sáng lập bởi Đoàn Hiệp
Powered by vBulletin®
Page copy protected against web site content infringement by Copyscape
Copyright © PIC Vietnam